Xu hướng trên thị trường

Trên thị trường, các nhà giao dịch được chia thành 3 nhóm: người (đang) mua, người (đang) bán và người còn lưỡng lự. Người mua muốn trả mức giá thấp nhất có thể, người bán muốn bán mức giá cao nhất có thể. Điều này tạo ra chênh lệch giá mua - giá bán trên thị trường. Giá mua là mức giá cao nhất mà một vài người trong nhóm mua sẵn sàng chấp nhận mua. Ngược lại, giá bán là mức giá thấp nhất mà một vài người trong nhóm bán sẵn sàng chấp nhận bán. Người mua có hai lựa chọn: chờ cho đến khi có người bán chấp nhận mức giá của mình đưa ra hoặc

trả theo mức giá bán được yêu cầu. Người bán cũng có hai lựa chọn tương tự: chờ cho đến khi có người mua chấp nhận mức giá của mình đưa ra hoặc bán với mức giá mua được đề nghị. Tồn tại một chênh lệch, dù rất nhỏ (0.01 USD), giữa giá mua và giá bán bitcoin (BTC).

Thị trường dịch chuyển khi có một người mua (hoặc bán) từ bỏ việc chờ đợi, vội vàng chấp nhận mức giá bán (hoặc mua) được yêu cầu. Sở dĩ những người này mất kiên nhẫn và từ bỏ mức giá của mình là do sự hiện diện của nhóm người còn lưỡng lự. Họ sợ rằng nhóm người còn lưỡng lự khi tham gia vào hoạt động mua bán của thể đưa ra mức giá dễ chấp nhận hơn và chiếm mất cơ hội giao dịch của họ. Người mua hiểu rằng nếu suy nghĩ quá lâu, những nhà giao dịch khác có thể tham gia và mua trước họ. Người bán hiểu rằng, nếu họ cố gắng giữ giá bán cao, sẽ có nhà giao dịch khác tham gia vào thị trường và bán tại mức giá thấp hơn. Đám đông các nhà giao dịch còn lưỡng lự có thể nhảy vào một trong hai phe mua và bán, tạo ra sự dịch chuyển của thị trường. Đồng thời, đám đông này cũng tạo ra áp lực khiến người mua và người bán phải sẵn lòng thỏa thuận với bên đối ngược. Khi một giao dịch đạt được sự đồng thuận, mức giá giao dịch được ghi nhận và nếu nó cao hơn các mức giá giao dịch trước đó, thị trường đang đi lên; nếu nó thấp hơn các mức giá giao dịch trước đó, thị trường đang đi xuống.

Sự hình thành xu hướng

Khi thị trường đi lên trong dài hạn, các nhà giao dịch gọi đó là xu hướng tăng (up trend), khi thị trường đi xuống trong dài hạn, các nhà giao dịch gọi đó là xu hướng giảm (down trend). Ngoài hai xu hướng này, thị trường sẽ ở trong giai đoạn không rõ xu hướng hay đi ngang (side way). Định nghĩa đơn giản này khiến cho các nhà giao dịch vừa dễ dàng xác định xu hướng, lại vừa không thể đồng ý với nhau về kết quả xác định. Thế nào là dài hạn? Chúng ta nên xem xét xu hướng trong khoảng thời gian nhiều giờ, nhiều ngày, hay nhiều tháng? Và một thị trường đi lên (hay đi xuống) trong dài hạn sẽ có những đặc điểm gì? Đây là những điểm mà chưa bao giờ các nhà giao dịch theo trường phái phân tích kỹ thuật thống nhất với nhau. Thị trường Bitcoin dường như ở trạng thái không có xu hướng khi giá giao động trong khoảng 54.000 USD/BTC đến 70.000 USD/BTC trong nhiều ngày kể từ tháng 3.

*Nhưng lại có sự đi lên rõ rệt khi xem xét khung thời gian 1H trong khoảng 10 ngày trở lại đây.*

Chính sự thiếu thống nhất này tạo nên tính “nghệ thuật” của phương pháp Phân tích kỹ thuật. Bằng chủ quan, mỗi nhà giao dịch phải tự chọn cho mình một khung thời gian giao dịch phù hợp cũng như các nguyên tắc xác định xu hướng riêng.

Lựa chọn khung thời gian

Tương tự như trong tự nhiên khi quan sát hiện tượng thủy triều đang lên (hoặc đang xuống), chúng ta vẫn nhận thấy những con sóng nhỏ hơn di chuyển theo hướng ra xa bờ (hoặc hướng vào bờ), trên thị trường cũng tồn tại những xu hướng khác nhau trên những khung thời gian khác nhau. Và những nhận định về xu hướng này đều đúng cả, việc vận dụng hợp lý xu hướng trên bất kỳ khung thời gian nào cũng sẽ mang lại lợi nhuận cho nhà giao dịch. Do đó, nhà giao dịch cần chọn cho mình một (hoặc một vài) khung thời gian chính để quan sát và xác định xu hướng của thị trường trên khung thời gian đó. Khung thời gian giao dịch chính là độ lớn của mỗi nên giá trong biểu đồ mà bạn nhà giao dịch quan sát khi phân tích. Nếu mỗi nến trên biểu đồ tương ứng với 1 ngày, đó là khung ngày (1D), nếu mỗi nến trên biểu đồ tương ứng với 1 giờ, đó là khung giờ (1h), tương tự, chúng ta có các khung thời gian cao hơn (hay lớn hơn) như 1 tuần (1W), 1 tháng (1M) và các khung thời gian thấp hơn (hay nhỏ hơn) như 30 phút (30m), 15 phút (15m), 4 giờ (4h). Việc lựa chọn khung thời gian không có nguyên tắc bắt buộc, tuy nhiên chúng ta có thể cân nhắc 3 điều sau để chọn ra khung thời gian phù hợp với bản thân:

(1) thời gian có thể dành để quan sát thị trường trong một ngày: Các khung thời gian từ 4h đến 1D phù hợp với nhà giao dịch có thể dành 1-2h mỗi ngày để quan sát thị trường vào các thời điểm đầu ngày, giữa ngày và cuối ngày. Các khung thời gian nhỏ hơn 4h phù hợp với các nhà giao dịch toàn thời gian, theo dõi thị trường liên tục. Các khung thời gian lớn hơn 1D phù hợp với những nhà giao dịch không muốn phải giao dịch quá thường xuyên.

(2) khả năng chấp nhận độ biến động của thị trường: Mặc dù mỗi biến động giá đều được phản ánh đầy đủ trên tất cả các khung thời gian, nhưng độ biến động giá ở mỗi khung thời gian là khác nhau. Độ biến động giá thường được tính toán bằng cách so sánh mức giá hiện tại hoặc của một vài nến giá với mức giá trung bình trong một khoảng thời gian lớn hơn. Những khung thời gian thấp (hay nhanh, ví dụ như 1h hoặc 15m) hơn có độ biến động cao hơn so với những khung thời gian cao (hay chậm, ví dụ như 1W, 1M). Khi giao dịch, độ biến động thị trường ảnh hưởng trực tiếp tới khối lượng giao dịch và mức độ rủi ro của mỗi lệnh giao dịch. Nhà giao dịch cần chọn ra khung thời gian mà rủi ro nằm trong mức chấp nhận được. Chúng ta sẽ bàn kỹ hơn về điều này trong các bài viết khác.

(3) phong cách giao dịch Thông thường, trên thị trường tồn tại 2 phong cách giao dịch chính là intraday và swing trade. Người theo phong cách giao dịch intraday thường mở lệnh và đóng lệnh ngay trong ngày, lợi dụng mức độ biến động cao của những khung thời gian thấp để giao dịch với khối lượng lớn (sử dụng đòn bẩy lớn) và thu được lợi nhuận ngay trong ngày. Người theo phong cách giao dịch swing trade thường giao dịch trên khung thời gian lớn, mở những vị thế giao dịch kéo dài nhiều ngày hoặc nhiều tuần (thậm chí nhiều tháng), tận dụng tối đa xu hướng của thị trường để đạt lợi nhuận.

Cách xác định xu hướng

Bên cạnh khung thời gian, đặc điểm nhận diện một xu hướng cũng là điều được các nhà giao dịch tranh luận. Từ quan điểm về những đặc điểm cần có này, các nhà giao dịch theo trường phái phân tích kỹ thuật tạo ra những phương pháp xác định xu hướng khác nhau. Chúng ta hay cũng xem xét ví dụ về biểu đồ giá chứng khoán phái sinh VN30F1M trên khung thời gian 1W (1 tuần) sau:

Tại thời điểm hiện tại (nến cuối cùng), chúng ta có thể dễ dàng nhận xét là giá VN30F1M từ năm 2020 có 3 xu hướng như sau: Việc xác định xu hướng trong quá khứ là tương đối dễ dàng, bởi chúng ta đã có cái nhìn đầy đủ hơn về giá. Tuy nhiên, tại mỗi thời điểm, không phải lúc nào cũng dễ dàng để chúng ta biết mình đang ở trong giai đoạn nào của thị trường. Giả sự bạn đang ở điểm được đánh dấu trong hình trên,liệu bạn sẽ nói rằng thị trường vẫn đang có xu hướng tăng hay bạn sẽ cân nhắc đây là một giai đoạn không có xu hướng? Điều gì có thể giúp bạn trả lời câu hỏi này? Các nhà giao dịch theo trường phái phân tích kỹ thuật đã tạo ra rất nhiều phương pháp từ đơn giản đến phức tạp để trả lời cho câu hỏi tưởng chừng như đơn giản: “xu hướng hiện tại của thị trường là gì?”. Chúng ta hay cùng xem xét 3 phương pháp cơ bản và cũng phổ biến nhất thường được các nhà giao dịch sử dụng là:

(1) Vẽ các đường xu hướng (2) Quan sát các đỉnh và đáy (3) Sử dụng đường trung bình giá (MA)

Vẽ các đường xu hướng

Một phương pháp cổ điển vẫn được nhiều nhà giao dịch theo trường phái phân tích kỹ thuật ưa thích sử dụng là vẽ lên biểu đổ những nhận định, quan điểm của mình về thị trường. Họ coi đây là hoạt động phân tích có giá trị hơn là lối phân tích áp dụng hàng loạt những công cụ tính toán lên biểu đồ giá. Bởi lẽ, bất kỳ công cụ tính toán nào cũng đều dựa trên một dữ kiện là giá, chúng không thể bổ sung thông tin gì đáng kể trong khi giá đã phản ánh đầy đủ thông tin rồi. Việc cần làm là phân tích giá thay vì làm rối thêm lên bởi những thứ khác. Nếu bạn là một nhà giao dịch theo phong cách này, chắc chắn có một công cụ mà bạn sẽ vô cùng quen thuộc - các đường xu hướng. Đường xu hướng (trend line) là một khái niệm cơ bản trong phân tích kỹ thuật. Đó là một đường thẳng, được vẽ trên biểu đồ giá để nối 2 hoặc nhiều đáy (hoặc đỉnh) nhằm xác định xu hướng của thị trường. Đường xu hướng tăng (Uptrend Line) được tạo ra bằng các nối các đáy (đáy sau cao hơn đáy trước) lại với nhau. Đây là một hướng dẫn đơn giản, nhưng thực hành sẽ gây bối rối cho nhà giao dịch và có thể dẫn đến những kết luận không chắc chắn. Hai đường xu hướng có thể vẽ cho thị trường Bitcoin khung thời gian 1W ở thời điểm hiện tại, vậy thị trường vẫn còn trong xu hướng tăng (như đường xu hướng 1), hay thị trường đã kết thúc xu hướng tăng (như đường xu hướng 2 - giá hiện tại đã nằm dưới đường xu hướng)? Phần lớn những nhà giao dịch hiện nay đồng ý rằng câu trả lời tùy thuộc vào kinh nghiệm chủ quan và thái độ thận trọng hay lạc quan của riêng mỗi nhà giao dịch, và không có một đường xu hướng nào chính xác nhất cho đến khi thị trường thực sự phản ứng với nó. Tương tự như vậy, đường xu hướng giảm được vẽ bằng cách nối các đỉnh thấp dần lại với nhau. Một xu hướng giảm rõ ràng được thể hiện bằng đường Downtrend Line trên thị trường Bitcoin khung 4H (trong khi đó trên khung tuần còn chưa xác nhận điều này)

Trong một số trường hợp, khi thị trường không tạo thành những hình mẫu đáy sau cao hơn đáy trước hoặc đỉnh sau thấp hơn đỉnh trước và chúng ta không thể vẽ được những đường xu hướng phù hợp thì đó là khi thị trường không có xu hướng. Như ví dụ dưới đây: Ngoài việc sử dụng để xác định xu hướng, nhiều nhà giao dịch còn dùng các đường xu hướng như ngưỡng hỗ trợ - kháng cự và xác định các tín hiệu giao dịch(sẽ đề cập trong các bài viết sau). Tuy nhiên, như đã nói ở trên, các đường xu hướng thường được vẽ khá chủ quan, chúng là một trong những công cụ bị ảnh hưởng bởi cảm xúc cá nhân nhiều nhất. Do đó việc sử dụng chúng như một công cụ cho ra tín hiệu giao dịch gây ra sự thiếu nhất quán, gần như chỉ cung cấp những căn cứ thuận theo những mong muốn của nhà giao dịch tại thời điểm đó.

Quan sát các đỉnh và đáy

Một phương pháp tương tự như việc vẽ các đường xu hướng nhưng đã được rút gọn thành một phương pháp đơn giản mà chặt chẽ hơn là việc quan sát các định và đáy lân cận. Thay vì vẽ một đường trendline kéo dài từ những điểm đỉnh và đáy rất xa trong quá khứ, phương pháp quan sát các đỉnh và đáy chỉ xem xét hai hoặc ba đỉnh/ đáy gần với với thời điểm quan sát. Nếu các đỉnh/ đáy gần đây tạo thành hình mẫu đáy sau cao hơn đáy trước, đỉnh sau cao hơn đỉnh trước, điều đó có nghĩa là thị trường đang trong xu hướng tăng. Nếu các đỉnh/ đáy gần đây tạo thành hình mẫu đỉnh sau thấm hơn đỉnh trước, đáy sau thấp hơn đáy trước, điều đó có nghĩa là thị trường đang trong xu hướng giảm. Ngoài hai trường hợp này, thị trường ở trong giai đoạn không có xu hướng. Cách thức đơn giản này vừa giúp nhà giao dịch xác định được ngay xu hướng trên thị trường, vừa tránh được những lỗi chủ quan do chỉ cần xem xét một số ít những điểm đỉnh đáy gần đây (điều khá rõ ràng). Tuy nhiên, phương pháp này không phải không có điểm yếu. Như trong hình, về tổng thể chúng ta có một xu hướng giảm và có thể thấy rõ bằng một đường trendline kéo dài. Nhưng khi chỉ xem xét các đáy lân cận thời điểm hiện tại, chúng ta không còn nhận diện được những đặc điểm của xu hướng giảm mà thị trường dương như đang không có xu hướng. Chính bởi việc chỉ xem xét những điểm đỉnh đáy lân cận nên phương pháp này thường quá nhạy với những thay đổi của thị trường, dẫn đến kết luận xu hướng thay đổi liên tục hoặc thường cho ra kết quả thị trường không có xu hướng, đặc biệt trên các khung thời gian nhỏ (dưới 1D)

Sử dụng đường trung bình giá (MA)

Đường trung bình giá (MA) phản ánh giá bình quân của dữ liệu trong mỗi khung thời gian nhất định, ví dụ MA(5) thể hiện giá bình quân trong 5 ngày qua, MA(20) thể hiện giá bình quân trong 20 ngày. Có hai loại đường trung bình giá được dùng là: giản đơn (MA hoặc SMA), hàm mũ (EMA) và trọng số (WMA). Đường trung bình giản đơn ban đầu được sử dụng nhiều do tính dễ dùng của chúng, tuy nhiên chúng mắc một lỗi nghiêm trọng - chúng thay đổi 2 lần khi có một nến giá hình thành. Giả sử với MA(5), đường MA(5) thay đổi khi đưa mức giá mới vào tính toán (mức giá của ngày thứ 6), và sau đó, nó lại thay đổi khi loại bỏ mức giá của ngày đầu tiên ra khỏi phép tính. Giả sử cổ phiếu đang được giao dịch quanh mức 50.000 đến 70.000 đồng, đường MA thể hiện giá trị trung bình là 65.000 trong đó bao gồm một mức giá cao 100.000 đồng. Khi mức giá cao này bị loại khỏi phép tính, đường MA đột ngột giảm xuống dù không có biến động giá nào (thậm chí giá có thể tăng nhẹ). Đây là một sử sụt giảm vô nghĩa và tai hại đối với nhà giao dịch. Do đó, ngày nay, ngày càng nhiều các nhà giao dịch sử dụng các đường EMA (hoặc WMA) thay cho đường SMA. Khác với Đường Trung bình Động Đơn giản (SMA), EMA đặt trọng số lớn hơn vào dữ liệu giá gần nhất, khiến nó nhạy hơn với sự thay đổi giá gần đây. Chính nhờ sự nhạy bén này, EMA giúp nhà giao dịch nhận biết xu hướng sớm hơn.

Hướng của đường EMA cho thấy hướng của xu hướng hiện tại.

  • Nếu EMA dốc lên, đó là tín hiệu của xu hướng tăng giá (Uptrend).
  • Nếu EMA dốc xuống, đó là tín hiệu của xu hướng giảm giá (Downtrend).

Ngoài việc sử dụng đường EMA đơn lẻ, nhà giao dịch có thể sử dụng 2 đường EMA khác nhau, một nhanh, một chậm và tín hiệu giao cắt giữa chúng để xác định xu hướng. Ví dụ với 2 đường EMA(13) - đường nhanh và EMA(26) - đường chậm

Sóng xu hướng Đường EMA Xu hướng
EMA(13) hướng lên EMA(13)>EMA(26) Xu hướng tăng
EMA(13) hướng lên EMA(13)<EMA(26) Không có xu hướng
EMA(13) hướng xuống EMA(13)>EMA(26) Không có xu hướng
EMA(13) hướng xuống EMA(13)<EMA(26) Xu hướng giảm
Việc sử dụng các đường EMA sẽ gần như loại bỏ hoàn toàn yếu tố chủ quan, cảm tính của nhà giao dịch khi xác định xu hướng so với 2 phương pháp kể trên. Mang lại sự nhất quán cho nhà giao dịch (trừ khi nhà giao dịch thay đổi tham số tính của đường EMA). Ngoài ra, EMA kết hợp độ mượt của trung bình động với tính phản ứng nhanh đối với biến động giá, giúp nhà giao dịch xác định hướng thị trường một cách kịp thời.